CN_3_PS_BChúa Nhật 3 Phục Sinh, Năm B

Cv 3: 11-26; 2Ga 2:1-5a; Lc 24:35-48

Mặc dầu Ðức Giêsu đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người ba lần, các môn đệ vẫn chưa hiểu đường lối của Ðấng Cứu thế.

Biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hi vọng của các ông, như hi vọng Thầy mình sẽ thiết lập một vương quốc trần thế, hi vọng được một chỗ đứng trong vương quốc của nước Người.  Thảm cảnh thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Hai môn đệ đi làng Em-mau quyết định bỏ cuộc về quê. Đột nhiên có người khách xuất hiện giải thích cho các ông hiểu lời Thánh kinh liên quan đến Đấng Cứu thế, mà lúc đầu các ông không nhận ra đó là chính Thầy mình.

Kế đó hai môn đệ vội vã trở về Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và hai ông được bảo là Chúa đã sống lại và hiện ra với ông Simon (Lc 24:33-34). Hai môn đệ làng Em-mau cũng thuật lại cho Nhóm Mười Một và các bạn đồng chí đang tụ họp về việc Chúa hiện ra với hai ông và các ông đã nhận ra Người lúc Người bẻ bánh. Lúc này Chúa lại hiện ra đứng giữa các ông và chúc: Bình an an cho các con (Lc 24:36). Tuy nhiên các tông đồ vẫn: Kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Ðức Giêsu liền trấn an các ông bằng cách chứng minh bản thể nhân loại của Người, chỉ cho họ tay chân của Người có xương thịt, chứ không phải là ma. Trước cảnh tượng đó, lòng các ông mừng rỡ, nhưng trí lại hoang mang ngỡ ngàng (Lc 24:41). Rồi Chúa giải thích lời Thánh kinh cho các ông hiểu về cuộc khổ hình và phục sinh của Ðấng Cứu thế để đem lại bình an cho các ông.

Trường hợp các tông đồ lúc đầu không nhận ra Chúa trong Phúc âm hôm nay cũng giống trường hợp bà Maria Mácđala, hai môn đệ đi làng Em-mau và các tông đồ lúc đầu cũng không nhận ra Chúa (Ga 20:14; Lc 24:16; Ga 21:4). Tại sao lại có chuyện như vậy? Lí do thứ nhất là vì các tông đồ không mong đợi với lòng tin tưởng việc Chúa sống lại như là Chúa đã tiên báo. Lí do thứ hai theo thánh Mác-cô là khi hiện ra với các môn đệ và tông đồ: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi. Hình dạng khác không phải là hình dong tiều tuỵ của một người đã bị tra tấn và nằm trong mộ ba ngày, không ăn uống nên Chúa bị xuống kí và yếu sức. Thánh Phaolô giải thích thân xác phục sinh của Chúa khác thân xác trước kia như sau: Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: ..gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1Cr 15:44).

Trước đó Ðức Giêsu cũng đã hiện ra với bà Maria Mácđala và mấy bà khác để trấn an các bà (Mt 28:1-10; Lc 24:1-11; Mc 16:1-11; Ga 20:1-18). Ðức Giêsu còn hiện ra với các tông đồ để củng cố đức tin của các ông và ban bình an cho các ông và trao sứ mệnh cho các ông (Mt 28:16-20; Mc 16:12-15; Ga 20:19-23). Ðặc biệt Chúa còn hiện ra với ông Tôma để ông có dịp phục hồi đức tin đã bị dập tắt và lấy lại bình an cho tâm hồn (Ga 20:24-29).

Lời chúc bình an của Chúa mang ý nghĩa đặc biệt cho người môn đệ của Chúa. Không những cho các tông đồ khôi phục lại sự bình an, Chúa truyền cho họ rao giảng sứ điệp sám hối để được ơn tha tội (Lc 24:47) vì không thể có bình an nội tâm nếu người ta sống trong tình trạng tội lỗi. Do đó mà thánh Phêrô rao giảng sự sám hối và trở lại cùng Chúa để được ơn tha tội (Cv 3:19) và được bình an. Còn thánh Gioan bảo tín hữu phải xa tránh tội lỗi (1Ga 2:1) để duy trì sự bình an.

Ða số người tín hữu cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, lo lắng và sợ hãi khác nhau trong cuộc sống. Người thì lo sợ mất công ăn việc làm, sợ mắc bệnh nan trị, sợ mất sức khoẻ. Người khác lo sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì gia đình đổ vỡ. Người khác lo sợ những ngày giờ khủng hoảng, đen tối đè nặng trên tâm hồn. Nếu vậy thì Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là điều mà ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi người ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng người ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ hơn nữa. Từ đó họ mới tìm đến Chúa.

Ngày nay người ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do thái vào thập niên tám mươi, chín mươi của thế kỉ hai mươi mà gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đầu giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do thái khao khát hoà bình như thế nào! Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa từ điển Webster có nghĩa là tình trạng, hay thời kỳ hoà hoãn, thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo từ điển Webster, hoà bình có nghĩa là trạng thái tĩnh, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, nhưng là một sự hoà hợp trong mối tương quan và liên hệ của mỗi ngưòi.

Hoà bình, mà Thánh kinh quen gọi là bình an bình an, là một ân huệ Chúa ban. Do đó bình an phải phát xuất từ tâm hồn mỗi người, phải được ăn rễ và phát triển trong tâm hồn. Bình an sẽ ngự trị trong tâm hồn ta, và xung quanh ta, nếu ta có được bình an trong tâm hồn. Ðể có được sự bình an nội tâm, người ta cần làm hoà với Chúa qua Bí tích Cáo giải. Ðể có được sự bình an trong tâm hồn, người ta cần sống theo đường lối của Chúa và tuân giữ giới răn Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được sự bình an nhờ lòng tin vào Chúa phục sinh:

Lậy Ðức Kitô phục sinh!

Sao có những điều trong đạo, con còn hoải nghi?

Con đã được chịu Phép Thánh tẩy:

cũng học đạo, đọc kinh và dự thánh lễ,

nhưng lòng thì không mấy xác tín.

Xin Chúa đánh động tâm tồn con, uốn mềm lòng trí con,

ban cho con một dấu chỉ nào đó,

như xưa Chúa đã ban cho các tông đồ và môn đệ,

để tâm hồn con được nghỉ an trong Chúa. Amen.

Lm Trần Bình Trọng