Trong Giáo Hội, giáo dân thi hành các chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế cách nào để nên nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời? Hỏi:  Xin cha giải tich  cho biết rõ cách thức người giáo dân thi hành ba chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế trong Giáo Hội.

Trả lời: Thiên Chúa tạo dựng con  người sống trên trần gian với số mệnh riêng biệt.Nghĩa là nói theo dân gian, thì mỗi người được ban cho một định mệnh khác nhau, không ai giống ai. Nói theo niềm tin thì  Thiên Chúa mời gọi mỗi người với ơn gọi riêng, để sống theo bậc sống của mình và chu toàn ơn gọi đó trong Giáo Hội.

Thí dụ, có những  người được ơn gọi ( vocation) làm giáo sĩ ( Phó tế, linh mục và giám mục) hay tu sĩ ( religious men and women) hoặc ơn gọi lập gia đình ( Married life) hay sống đời độc thân ( single life).

Trong Giáo Hội, qua Phép Rửa, mọi tín hữu được lãnh nhận ba chức năng quan trọng : đó là tư tế, ngôn sứ và vương đế.Nhưng ba chức năng này được thi hành khác nhau giữa hàng giáo sĩ ( clerics) và giáo dân( Laity)  được trình bày rõ dưới đây:

Trước hết, trong hoàn cảnh thế giới tục hóa, bất công, bạo động , vô luân, vô đạo  và thiếu tình người hiện nay ở khắp nơi, người tín hữu Chúa Kitô nói riêng - và Giáo Hội nói chung- hơn bao giờ hết được mong dợi sống Tin Mừng Cứu Độ và làm nhân chứng cho Chúa Kitô cách sống động và đích thực hơn nữa  để đẩy lui bóng đen của tội lỗi và sự dữ đang bao trùm thế giới, đe dọa  đẩy xa con người ra khỏi niềm tin có Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành.

 Để đối phó vơi hiểm họa trên, Giáo Hội đặc biết mời gọi mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội phải tái phúc âm ( re-evangelization) để sống  Tin Mừng Cứu độ  của Chúa Kitô  và làm nhân chứng cho Chúa  cách thuyết phục hơn nữa.

Riêng đối với người giáo dân, tái phúc âm cũng có nghĩa là thêm ý thức  về vai trò của mình để  sống nhân chứng cho Chúa  Kitô trước mặt người đời  cách cụ thể và  tích cực hơn nữa qua ba chiều kích ngôn sứ, tư tế và vương đế.

Ba chức năng trên phát xuất từ Phép rửa mà mọi người đã lãnh nhận khi gia nhập Giáo Hội  của  Chúa Kitô, thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ  với sứ mệnh phải  ra đi  loan báo Tin Mừng  cho muôn dân, “ làm cho muôn dân trở thành môn đệ, và làm  Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần…”,( x Mt  28: 19) như Chúa KiTô đã truyền cho các Tông Đồ trước khi Người về trời, sau khi hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc nhân loại qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên Trời.

Đây là một đặc ân cao quý và cũng là trách nhiệm của những ai đã gia nhập Giáo Hội của Chúa Kitô qua Phép Rửa.Các Thánh Giáo Phụ ( Church Fathers) xa  xưa  đã dạy rằng người tín hữu giáo dân là Đức Kitô thứ hai ( Alter Christus) nhờ Phép rửa cho phép họ được tham dự  vào các chức năng trên  của Chúa Kitô.

 Danh xưng  Đức Kitô thứ hai sau này  cũng được dùng để chỉ các tư tế phẩm trật ( ordained Ministers) như linh mục và giám mục, là những người thực sự thay mặt và nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi) khi cử hành các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải  Xức dầu và Truyền Chức Thánh ( dành riêng cho giám mục). Các Bí tích Rửa tội và Hôn phối thì phó tế có thể làm , kể cả giáo dân trong trường hợp khẩn cấp, nguy tử. Cũng  vậy, Hai người phối ngẫu có thể kết hôn thành sự  với sự chứng kiến của hai nhân chứng trong trường hợp nguy tử, không tìm  được linh mục hay phó tế để chứng hôn cho họ.(  x giáo luật số, 1116 &1)

Danh xưng  giáo dân( laity= lay people)  được  dùng để chỉ những người không có chức thánh như  giáo sĩ =clerics , hoặc tu sĩ có lời khấn Dòng ( vows of consecrated  life). Họ chính là thành phần dân Chúa đông đảo nhất trong Giáo Hội và được  tham dự vào ba  chức năng  Ngôn sứ,  Tư tế và Vương đế của Chúa Kitô  theo cách thức riêng của họ.

Thánh Công Đồng Vaticanô  II , trong Hiến Chế Tin Lý Lumen Gentium,  đã phân biệt  Chức linh mục  thông thường   của giáo dân.( the common priesthood  of  the laity) khác với Chức  linh mục biệt tác của hàng giáo sĩ thừa tác  ( extraordinary ministerial Priesthood of  the clerics)  như sau:

Hàng giáo sĩ thừa tác thì hành chức năng tư tế khi cử hành các bí tích , cách riêng bí tích Thánh Thể và Hòa giải nhân danh Chúa Kitô ( Personna Christi). Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành các bí tích qua tay các thừa tác viên con người là Phó tế, linh mục và giám mục.Vì thế, bí tích luôn thành sự ( validly) khi thừa tác viên nhân danh Chúa và cử hành đúng theo Nghi thức ( Rites) mà Giáo Hội đã qui định.

Thí dụ, rửa tội phải có nước và đọc công thức Chúa Ba Ngôi (The Hoy Trinitarian Formula). Nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì bí tích không thành sự, dù cho thừa tác viên là linh mục hay giám mục.Cũng vậy, khi cử hành bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh Lễ Tạ Ơn, (The Eucharist) nếu thừa tác viên  không dùng đúng chất thể là bánh không men ( unleavened bread) và rượu nho đúng theo qui đinh của Giáo Hội, hoặc không đọc đúng kinh Nguyện Tạ Ơn và  lời truyền phép ( consecration) theo chữ đỏ ( rubric) thì bí tích sẽ không thành sự (validly) . Ngược lại,  nếu không có chức linh mục hữu hiệu hay thành sự, thì cho dù  có đọc  và làm đúng theo lễ qui vẫn không  có  bí tích  được;  và người cử hành sẽ  bị vạ tuyệt thông tiền kết , vì không có chức linh mục mà dám cử hành Thánh Lễ hay giải tội cho ai.( x giáo luật số 1378 triệt 1 và 2).

Chinh vì không có Chức linh mục hữu hiệu, nên các mục sư Tin Lành và Anh Giáo ( Anglican) không thể truyền phép hữu hiệu để có Thánh Thể được, dù họ có cầm bánh và chén  rượu lên vầ đọc lời Chúa  Giêsu nói trong Bữa ăn sau hết với các Tông Đồ.Nghĩa là , không có sự biến đổi bản  bản thể ( Transubstantiation) của bánh và rượu thành Minh, Máu Thánh Chúa Kitô được.

Tiếp đến,  hàng giáo sĩ thừa tác thi hành chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và giáo lý của Giáo Hội cho giáo dân ở khắp nơi để giúp họ biết sống đức tin, đức cậy và đức mến cách đích thực  để được cứu rỗi theo lòng mong muốn của Thiên Chúa,  “ Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 :4)

Mặt khác, hàng giáo sĩ và tu sĩ cũng được mong đợi sống phù hợp với lời mình rao giảng và dạy dỗ  để làm chứng cho Chúa Kitô, “Đấng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20 28)

Đây là sứ mệnh mở mang Vương Quốc của Chúa Kitô, Vương Quốc của yêu thương, tha thứ, công bình và thánh thiện  trong lòng người ở khắp mọi nơi trên thế giới cho đến ngày mãn thời gian.

Đó  là cách thức  hàng giáo sĩ  tham dự  và thi hành  ba  chức  năng  tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, với tư cách là tư tế thừa tác ( ministerial sacerdoce)

Ngược lại , người giáo dân, nhờ bí tích Rửa tội, cũng được tham dự vào các chức năng trên  nhưng  theo cách thức riêng của họ như sau:

Trước hết là chức năng ngôn sứ, người giáo dân không rao giảng lời Chúa trong nhà thờ, nhà nguyện như các linh mục, giám mục, mà rao giảng bằng chính đời sống của mình trước mặt người đời chưa nhận biết Chúa  để giúp họ nhân biết và tin yêu Chúa nhờ gương sống đức tin của mình.

Nghĩa là, khi sống  giữa những người không có niềm tin, hay có mà không dám sống niềm tin ấy, nên họ ăn gian nói dối, cờ bạc , gian dâm, thay vợ đổi chồng, buôn bán gian lận, thù ghét người khác, phá thai , ly dị, nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ nữ để cung cấp chọ bọn ma cô tú bà hành nghề mãi dâm và ấu dâm ( child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi… thì người có niềm tin Chúa phải sống ngược lại với cách sống của những người vô đạo hay chối đạo kia  để “ người ta  thấy những việc tốt đẹp anh  em làm , mà tôn vinh Cha của anh  em, Đấng ngự  trên Trời.” ( Mt 5 :16), như Chúa Giê su đã dạy các môn đệ xưa.

Đây chính là trách nhiệm “ phúc âm hóa môi trường sống” của người tin hữu giáo dân, góp phần hứu hiệu với hàng giáo phẩm và giáo sĩ trong sứ mệnh “phúc âm hóa thế giới”  để mở mang Nước Chúa trên trần thế. Chính  nhờ gương sống chứng nhân của mình mà  người  giáo dân sẽ thuyết phục  cách hữu hiệu được nhiều người khác nhận biết và tin yêu Chúa . Vì thề, Công Đồng Vaticanô II đã dạy rằng:

  “    …Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ  không trở thành muối của thế gian.” ( LG, số 33)

Nói khác đi, khi sống giữa những người khác tín ngưỡng hay vô tín ngưỡng, người tín hữu Công giáo làm chứng cho Chúa Kitô và rao giảng Tin Mừng của Chúa  bằng chính  đời sống công bình, bác ái, vị tha, nhân hậu và  trong sạch để  đối nghịch với lối sống  vô luân,vô đạo,  gian tham, xảo trá, gian manh, vô nhân đạo của người đời. Nghĩa là. khi không hùa theo cách sống của họ để  có can đảm sống theo đường lối của Chúa  Cha,và bước đi theo Chúa Kitô, là “ Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” ( Ga 14:4)  từ trong gia đình ra đến ngoài cộng đồng xã hội  để không thay chồng đổi vợ, không ly dị, phá thai, không thù oán ai,  không buôn bán gian lận, không lui tới những nơi tội lỗi như  sòng bài và nhà điếm…  thì  người  giáo dân  đã chu toàn  chức năng   ngôn sứ  của mình cách cách cụ thể  và  có sức thuyết phục  là  rao giảng Tin Mừng  của Chúa Kitô cách hùng hồn  bằng chính  đời sống  của mình cho những người sống vô luân vô đạo ở khắp nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.

Và đây mới chính là cách thi hành chức năng  ngôn sứ của người giáo dân trong Giáo Hội để góp phần mở mang Nước Chúa bằng  lời nói và việc làm của mình  trước mặt người đời chưa nhận biết Chúa.

Nói khác đi, nếu người tín hữu Chúa Kitô ( Christians) -  giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân-  mà cũng ham mê tiền của, tôn thờ khoái lạc ( hedonism) chạy theo những lôi cuốn về danh lợi  và vui  thú vô luân ,vô đạo với người đời, thì sẽ trở thành phản chứng (anti-witness) thay  vì là nhân chứng  (witness) cho Chúa Kitô  “ Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh  em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em được trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8: 9)

Mặt khác, khi người tín hữu Chúa Kitô -  giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân-  sống công bình  bác ái, trong sạch và vị tha, yêu thương,  tha thứ  từ trong gia đình ra đến cộng đồng xã hội  thì cũng góp phần tích cực vào việc  mang Vương Quốc của Chúa là Vương Quốc yêu thương, công bình, an vui  và thánh thiện đến với những ai đang sống trong hận thù, bất công, bóc lột người khác, vô luân  vô đạo  và   dửng dưng trước sự nghèo đói của  biết bao  anh chị  em  đồng loại  sống  quanh mình.

Sau hết, người tín hữu giáo dân thi hành chức năng tư tế của mình bằng cách dâng đời sống  cá nhân hay gia đình  với mọi vui buồn , sướng, khổ, thành công hay thất bại  để  hiệp thông với sự đau khổ  cực nạn  của Chúa Kitô đã  một lần dâng lên Chúa Cha trên thập giá xưa kia , để đền tội thay cho nhân loại. Hy Tế này vẫn  còn tiếp tục  được  dâng  cách bí nhiệm trong Thánh Lế Tạ Ơn (Eucharist) trên bàn thờ  mỗi ngày ở khắp nơi trong Giáo Hội ngày nay, để xin ơn tha tội cho chúng ta hôm nay cùng thể thức và mục đích của Hy tế Chính Chúa Kitô đã  một lần dâng trên thập giá  năm xưa .

Tóm lại, người tín  hữu giáo dân được mời gọi thi hành các chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của mình theo cách thức đã trình bày trên đây, để  hiệp  thông  cùng với hàng giáo sĩ thừa tác  tế  lễ, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho những người chưa biết Chúa  hầu mở mang Vương Quốc  yêu thương, công bình và thánh thiện  của Chúa  trong tâm hồn  con người ở khắp mọi nơi, để đánh tan bóng đen của tội lỗi,  của văn hóa sự chết, của chủ nghĩa  tục hóa ( vulgarism, secularism)  tôn thờ tiền bạc (cult of money) và mọi thú vui vô luân vô đạo,  đang ngày một bành trướng ở khắp nơi trên thế giới tục hóa,  trống vắng niềm tin này.Amen.

Ước mong những giải thích trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.