CN_3_MC_BChúa Nhật 3 Mùa Chay, Năm B

Xh 20:1-17; 1Cr 1: 22-25; Ga 2:13-25

Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán súc vật trong quảng trường của Ðền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Ðền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15).

Luật Do thái cấm chỉ việc mua bán trong khu vực Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường Ðền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ?

Thưa rằng dịch vụ hối đoái để trả thuế Ðền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường.

Thứ đến việc đổi tiền để nộp thuế cho Ðền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Ðức Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Ðền thờ mỗi năm một lần bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được lưu hành trong Ðền thờ. Ðổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.

Ðền thờ Giêrusalem đồ sộ, nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Ðức Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Ðức Giêsu trích dẫn  sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46).

Khi người Do thái hỏi xem Ðức Giêsu lấy dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Ðền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Ðền thờ, thưa với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1) thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Ðền thờ, chỉ để chừa lại một phần của bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe tăng và xe ủi).

Phúc âm hôm nay nhắc đến việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Ðức Giêsu sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm việc thờ phượng và cầu nguyện.

Do đó Giáo hội đòi hỏi khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.

Giáo hội còn đưa ra những nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm. Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.

Việc kiến thiết và tu bổ nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ theo thời tiết... Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.

Một linh mục kia có lần đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau. Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm họ chia trí không?

Nghệ thuật và kiến trúc thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông nọ cắm cằm kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục đó.

Tóm lại về phương diện tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật thánh và thánh nhạc mà ca tụng Ðấng sáng tạo.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tôn kính nhà Chúa:

Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và quan phòng muôn loài.

Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trên toàn cõi địa cầu.

Ðặc biệt Chúa diện diện trong thánh đường

nơi có Mình Thánh Chúa Kitô ngự trị.

Xin dạy con biết tỏ ra tôn kính và yêu mến nhà Chúa,

và cho con được tìm thấy nơi nhà Chúa

nguồn sức mạnh, niềm an ủi và sự cậy trông

của đời con. Amen.

Lm Trần Bìng Trọng