- Chi tiết
-
Chuyên mục: Chu Kì Phụng Vụ
-
Được đăng: Thứ ba, 20 Tháng 3 2012 15:34
-
Lm Trần Bình Trọng
-
Lượt xem: 8519
Sống tinh thần Mùa Phục Sinh
Mùa Phục Sinh kéo dài 50 ngày từ Chúa Nhật Phục Sinh cho tới hết Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống để ghi nhớ lời Thánh sử Luca: “Khi đến ngày Lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tụ họp một nơi.. hết thảy mọi người được đầy tràn Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 1-4). Các Chúa Nhật trong Mùa này được gọi là Chúa Nhật thứ mấy Phục Sinh. Lời ca hát Alleluia trước Phúc âm, có nghĩa là vui mừng, tung hô, ngợi khen là đặc điểm của Mùa Phục Sinh.
Đức Kitô phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử loài người. Phục Sinh là ngày lễ quan trọng nhất trong thế giới Kitô giáo, kỉ niệm Chúa Phục sinh từ cõi chết sống lại, để cứu chuộc loài người. Nếu Đức Kitô không sống lại, thì Người không thể huỷ diệt sự chết và không thể mời gọi loài người chia sẻ cuộc Phục sinh với Người. Nếu như vậy thì loài người cũng sẽ chết như loài vật và cỏ cây qua một tiến trình: sinh, lão, bệnh, tử mà thôi.
Việc Đức Kitô phục sinh đã được tiên báo trước
Mỗi dân tộc có những câu chuyện thần thoại khác nhau. Trí tưởng tượng người ta càng giầu thì chuyện càng thần thoại. Tuy nhiên chuyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình sống lại, là một câu chuyện quá thần thoại, vượt sức tưởng tượng của loài người. Ðối với những người chống Thiên Chúa giáo, thì đó chỉ là một câu chuyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu chuyện Ðấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các ngôn sứ tiên báo cả hàng trăm năm trước (Lc 24:46), và chính Đức Giê-su cũng tự tiên báo trong cả 4 Thánh sử: (Mt 16:21; 17:9; 17:23; 20:19; Mc 8:31; 9:9; 9:31; 10:34; Lc 9:22; 18:33; Ga 2:19) . Ðể phản bác lời tiên tri về việc Ðức Ki-tô phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã xin quan Pilatô phái quân lính đến canh mộ Người, hầu tránh âm mưu có thể xẩy ra, do việc môn đệ lấy trộm xác, rồi phao tin là Thầy họ đã sống lại (Mt 27:63-66).
Những chứng nhân tiên khởi của Đức Ki-tô phục sinh
Vào thời bấy giờ tại tòa án Do thái, đàn bà không thể đứng ra làm nhân chứng. Vậy mà Ðức Giêsu đã chọn bà Maria Mác-đa-la làm chứng nhân cho việc Người sống lại. Như vậy phải có lí do nào đó. Và đó là đường lối của Thiên Chúa. Khi bà Maria Mác-đa-la vội vã chạy về báo tin cho ông Phêrô và Gioan rằng xác Thầy họ không còn nằm trong mồ nữa, hai ông cũng chạy ra mồ. Ông Gioan chạy mau hơn vì còn trẻ, nhưng vì tế nhị không vào ngay, đợi cho ông Phêrô đến sau để vào trước. Ông Phêrô không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Nếu xác Ðức Giêsu bị lấy trộm như các thượng tế và người Pharisêu đã đề phòng, xin Philatô ra lệnh cho quân lính canh mồ, thì kẻ trộm phải làm cách vội vã, chứ đâu còn giờ mà lột khăn liệm ra khỏi thân mình Chúa, và cũng đâu còn giờ để gấp khăn che đầu lại làm chi cho mất công và mất giờ. Do đó việc gấp khăn che đầu là dấu chỉ cho các tông đồ tin là Thầy họ đã sống lại. Và thánh Gioan, có lẽ vì được Ðức Giêsu thương mến (Ga 20:2) và không bận tâm với việc vợ con, nên mới tinh ý nhận ra được ý nghĩa của dấu chỉ này.
Những chứng nhân tử đạo anh dũng của Đức Ki-tô Phục sinh
Các tông đồ cũng như hàng ngàn các môn đệ của Chúa thời Giáo Hội sơ khai, cũng như hàng triệu người Công Giáo trên khắp thế giới sau đó đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho việc Đức Kitô Phục Sinh gồm 117 vị thánh Tử Đạo Việt Nam đợt 1, và đức tin vào Chúa Cứu Thế, Đấng cứu độ trần gian. Các vị từ đạo đã làm chứng cho đức tin vào Chúa Phục Sinh bằng mạng sống của mình.
Những chứng nhân trung kiên không đổ máu của đức Ki-tô Phục Sinh
Còn đại đa số người môn đệ của Chúa gồm hàng giáo phẩm, hàng giáo sĩ, hàng tu sĩ và hàng giáo dân, thì làm chứng cho đức tin vào Chúa Phục Sinh bằng lời nói, việc làm, bằng đời sống đức tin, và bằng việc loan truyền lời Chúa theo khả năng và phương tiện có thể .
Thiết tưởng mỗi người tín hữu cần tự hỏi xem lời nói, việc làm và đời sống đức tin của mình có phải là làm chứng hay phản chứng. Gương chứng nhân sống đức tin có sức thuyết phục và lôi cuốn hơn là những bài thuyết giáo về đức tin nhiều lần. Mahatma Gandhi, nhân vật chống đối bất bạo động chính sách thuộc địa của Anh Quốc tại Ấn Độ, nhận xét đại khái về người Kitô giáo như sau: Nếu người Kitô giáo (gồm Công Giáo) thực sự sống đức tin của họ, thì đã có nhiều người theo đạo Kitô giáo hơn.
Lm Trần Bình Trọng
- Chi tiết
-
Chuyên mục: Chu Kì Phụng Vụ
-
Được đăng: Thứ ba, 20 Tháng 3 2012 15:32
-
Lm Trần Bình Trọng
-
Lượt xem: 7185
Sống tinh thần Mùa Thường Niên 1
‘Ngoài những mùa phụng vụ có đặc tính riêng biệt, còn lại 33 hoặc 34 tuần trong chu kì năm phụng vụ. Trong các tuần lễ này, Giáo Hội không cử hành một khía cạnh nào đặc biệt về mầu niệm Chúa Kitô, mà lại tôn kính chính mầu nhiệm của Chúa Cứu Thế trong toàn bộ, nhất là trong các ngày Chúa Nhật. Thời gian này gọi là Mùa Thường Niên ’. Đoạn trên trích từ Niên Lịch Phụng Vụ 2012, của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kì).
Mùa Thường niên được chia làm hai phần: Mùa Thường Niên I và II. Lễ phẩm trong Mùa Thường Niên 1 và 2 là màu xanh lá cây, tượng trưng cho niềm hi vọng. Hi vọng là một trong 3 nhân đức tối thấn của người tín hữu: tin, cậy (hi vọng), mến. Hi vọng là lẽ sống của người tín hữu. Còn hi vọng là người ta còn cầu nguyện. Hết hi vọng, người ta cũng thôi cầu nguyện.
Mùa Thường Niên 1 bắt đầu từ Thứ Hai sau Chúa Nhật Chúa lãnh Phép Rửa, hoặc theo sau 06 Tháng 1 cho tới hết Thứ Ba trước Thứ Tư Lễ Tro. Trong Mùa Thường Niên 1, giáo hữu Việt Nam thường mừng ngày Tết Nguyên Đán. Đôi khi có những năm, Tết Nguyên Đán đến trễ vào ngay đầu Mùa Chay.
Tết Nguyên Đán là ngày lễ nghỉ mang sắc thái văn hoá dân tộc. Tuy nhiên người Công Giáo cần đem ý nghĩa tôn giáo vào việc mừng Tết, có nghĩa là công nhận Thiên Chúa là Chúa của ngày Tết, Chúa của Xuân, Hạ, Thu, Đông, Chúa của tứ thời bát tiết, Chúa của thời giờ, năm tháng và đem Chúa vào việc mừng Xuân mới sang. Người Công Giáo được khuyến khích và nhắc nhở để đem ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa thiêng liêng vào việc đón xuân.
Để áp dụng thực hành, Hội Ðồng Giám Mục VN quy định những ý chỉ cầu nguyện cho các ngày Tết như sau:
(1) Lễ Tất Niên: Ngày tạ ơn Thiên Chúa cho năm cũ: tạ ơn cho thời giờ, năm tháng và ân huệ Chúa đã ban, đồng thời xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ.
(2) Lễ Giao Thừa: Ngày cầu bình an cho Năm Mới: cho Quê Hương, Giáo Hội, cho cá nhân và gia đình. Bình an không chỉ hiểu theo nghĩa vắng bóng chiến tranh bằng súng đạn, nhưng còn là bình an trong tâm hồn.
(3) Lễ Tân Niên: Ngày xin ơn đổi mới tâm hồn và đời sống trong Năm mới.
(4) Lễ Mồng Hai Tết: Ngày kính nhớ và cầu nguyện cho Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ. Truyền thống lễ giáo Việt Nam dạy con cái phải thảo kính ông bà cha mẹ qua những câu ca dao như: “Công cha như núi thái sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng tôn kính mẹ cha. Cho tròn chữ hiếu mới là con ngoan”. Truyền thống Do Thái giáo cũng tương tự như truyền thống Việt nam xét về chữ hiếu. Sách Huấn Ca chứa đựng những lời khuyên dạy thực tế mà người Do thái trong Cựu ước đã thu tích được để giúp con cháu sống theo gương đạo hạnh, công đức (Hc 44:10) của tiền nhân. Sách Huấn Ca là một trong 46 cuốc sách Thánh Kinh Cựu Ước và 27 cuốn Thánh Kinh Tân Ước của Giáo Hội Công Giáo.
(5) Lễ Mồng Ba Tết : Ngày xin ơn thánh hoá công ăn việclLàm. Người Công Giáo làm việc không phải chỉ vì việc làm, mà coi việc làm chỉ là phương tiện để giúp thăng tién hoá đời sống, chứ không coi việc làm như là cùng đích và cứu cánh.
Quan niệm của dân gian Việt Nam về Ông Trời là Thượng Đế, Đấng Hoá Công, Đấng tạo thành trời đất, loài người và muôn vật, vận hành sự xoay chuyển vũ trụ, điều khiển vận mạng con người và thưởng phạt người lành người dữ.
Vua Trần Nhân Tông, sau khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh bại Quân Nguyên-Mông 2 lần vào năm 1285 và 1288 đã rời bỏ ngôi báu để vào rừng núi Vũ Lâm, Tỉnh Ninh Bình tu trì, rồi lên núi Yên Tử, Tỉnh Quảng Ninh để tu khổ hạnh theo Phật học. Trong bài “Động Thiên hồ cảnh”, Vua Trần Nhân Tông đã công nhận quyền năng của Thượng Đế khi viết: “Thượng Đế liên sầm tịch” mà David Trần chuyển ý là Thượng Đế thương hồ lạnh. Còn Cung Oán Ngâm Khúc thì phàn nàn về Thượng Đế: “Hoá Công sao khéo trêu ngươi” và Thuý Kiều lại than trách Thượng Đế: “Phũ phàng chi bấy Hoá Công”.
Quan niệm chung của dân Việt về Ông Trời còn lưu hành câu ca dao: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp”. Có nơi đọc câu cuối là: “Lấy con tôm to”. Đại thi sĩ Nguyễn Du còn tạ ơn Trời bằng cách đặt vào miệng Kim Trọng vần thơ bất hủ khi gặp lại được Thuý Kiều: “Trời còn để có hôm nay”, nghĩa là Trời còn để cho Kim Trọng và Thuý Kiều có ngày gặp nhau. Những thành ngữ về Ông Trời còn lưu lại như sau: Trời không phụ người có đạo; Trời không phụ người có nhân; Trời không phụ người có nghĩa; Đạo Trời không phụ lòng người. Dân gian Việt Nam còn truyền tụng những câu nói về Ông Trời như: “Trời có mắt” hoặc “Trời sinh voi sinh cỏ”.
Ông Trời đó của dân gian Việt Nam, những người theo Đạo Trời, cũng là Chúa Trời - Thiên Chúa - của người Công Giáo nói riêng và Thiên Chúa Giáo nói chung. Thiên Chúa tạo dựng loài người với những nhu cầu thể chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Và Thiên Chúa ban cho loài người trí óc và đôi bàn tay làm việc để đáp ứng nhu cầu sinh tồn và để phát triển con người. Như vậy người Công Giáo không làm việc một cách lẻ loi, nhưng làm việc kết hợp với việc làm của Đức Kitô, để xin Chúa giúp tìm ra ý nghĩa và mục đích của công việc làm và xin Chúa thánh hoá công việc làm.
Vào dịp đầu năm mới, người tín hữu tạ ơn Chúa Trời về những hồng ân Chúa đã ban trong năm cũ và xin Chúa chúc lành cho năm mới.
Lm Trần Bình Trọng
------------------------------
Living the spirit of the Ordinary Time 1.
‘Aside from the liturgical seasons of their particular character, there remain 33 or 34 weeks in the cycle of the liturgical year. During these weeks, the Church does not celebrate any particular aspect of the mystery of Christ, but venerates the mystery of Christ in its entirety, especially on Sundays. This time is called Ordinary Time’. The above excerpt is from the 2012 Liturgical Almanac, of the Vietnam Catholic Federation in the United States.
Ordinary Time is divided into two parts: Ordinary Time I and II. The vestments in the Ordinary Time 1 and 2 are green, symbolizing hope. Hope is one of the three cardinal virtues of the faithful: faith, hope, and love. Hope is the life reason of the faithful. As long as there is hope, people are still praying. When there is no hope, people also stop praying.
Ordinary Time 1 begins on Monday after the Sunday following January 6 through Tuesday before Ash Wednesday. During the Ordinary Time 1, Vietnamese Christians often celebrate the Lunar New Year. Sometimes, there are years when the Lunar New Year comes late at the beginning of Lent.
Lunar New Year is a holiday with national and cultural nuances. However, Catholics need to bring religious meaning to celebrating Tet, which means recognizing God as the God of Tet, the God of Spring, Summer, Autumn, and Winter; God of all seasons and eight weathers, God of time, year and bring God into the celebration of the New Year. Catholics are encouraged and reminded to bring religious and spiritual meaning into welcoming the New Year.
For practical application, the Bishops' Conference stipulates prayer intentions for Tet holidays as follows:
(1). Celebration of the last Day of the Year: A day to thank God for the past year: to thank God for the time, year and favors God has given, and ask God to forgive the mistakes and shortcomings in the past year.
2). Celebration of the New Year Eve: A day to pray for peace for the New Year: for the Homeland, the Church, for individuals and families. Peace is not only understood in the sense of the absence of war with guns and bullets, but also in the sense of peace of mind.
(3). Celebration of the New Year Day: A day to ask God for grace to renew your soul and life in the New Year.
4). Celebration of the Second Day of The New Year: Day to remember and pray for Ancestors, Grandparents and Parents. The Vietnamese religious tradition teaches children to respect their parents and grandparents through folk songs such as: "A father's merit is like a Thai mountain. Motherhood is like water flowing from a source. Respect for mother and father. Fulfilling filial piety is a good child." The Jewish tradition is similar to the Vietnamese tradition in terms of filial piety. The book of Sirach contains practical advice that the Jews in the Old Testament have accumulated to help their descendants live according to the moral and virtuous examples (Sirach 44:10) of their ancestors. The Book of Sirach is one of the 46 Old Testament books and 27 New Testament books of the Catholic Church.
(5). Celebration of the Third Day of The New Year: Day to ask God for grace to sanctify work. Catholics do not work just for the sake of work, but consider work only as a means to help improve life, and do not consider work as the ultimate goal and end.
The Vietnamese folk concept of God is God of heaven and earth, human beings and all things. He is Creator who operates the rotation of the universe, controls human destiny and rewards good people and punishes evil persons.
King Tran Nhan Tong, after Hung Dao Vuong Tran Quoc Tuan defeated the Yuan-Mongol Army twice in 1285 and 1288, left his throne to go to Vu Lam mountain in Ninh Binh Province to practice self-cultivation, then to Yen Tu mountain in Quang Ninh province to practice asceticism according to Buddhism. In the article "Dong Thien Ho Canh", King Tran Nhan Tong recognized the power of God when he wrote: "God loves the cold lake". As for Cung Oan Ngam Khuc, he complained about God: "How is Hoa Cong so clever at teasing people?" and Thuy Kieu complained about God: "How cruel is Hoa Cong."
The Vietnamese people's common concept of God still circulates in folk songs: "Dear God, please rain down, that I may drink the water, plow the fields, fill my rice bowl and use straw to cook the rice pot." Some people read the last sentence as: "Get a big shrimp". Great poet Nguyen Du also thanked God by putting into Kim Trong's mouth the immortal poem when he met Thuy Kieu again: "God still allowed today", meaning God still allowed Kim Trong and Thuy Kieu to meet together one day. The remaining idioms about God are as follows: God does not disappoint those who have faith; Heaven does not disappoint those who are benevolent; Heaven does not disappoint righteous people; The Way of God does not disappoint people. Vietnamese folk also recite sayings about God such as: "Heaven has eyes" or "Heaven gives birth to elephants and grass".
That God of the Vietnamese people, those who follow Heavenly Religion, is also God of Catholics in particular and Christians in general. God created humans with physical, mental and spiritual needs. God gave human beings minds and working hands to meet the needs for survival and human development. Thus, Catholics do not work alone, but work united with the work of Christ, as to ask God to help find the meaning and purpose of work and to ask God to sanctify work.
At the beginning of the New Near, the faithful thank God for the blessings God gave in the old year and ask God to bless the New Year.
John Tran Binh Trong