Nhìn lại biến cố và những sự kiện xẩy ra, người ta thường suy đoán cách này hay cách khác, chẳng hạn việc suy đoán biến cố 30-4-1975, thì có người cho đó là vận thời thế nước, giải thích theo sấm ông này, dẫn giải theo lối ông trạng kia,

một số khác thì cắt nghĩa theo “ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa... còn thời điểm thì các ông không cắt nghĩa nổi” (Mt 2,3).

Khi biến cố xẩy ra, nó đã tác động mạnh mẽ đến tâm trạng của từng người. Hậu qủa của biến cố, đã lung lạc “trên con người những ngày mà thù địch ngươi đắp lũy và bao vây ngươi, công hãm ngươi tư bề” (Lc 19,43). Vì biến cố đó, đã có những cuộc bỏ nước ra đi, với mọi phương cách phiêu lưu đến cùng khắp thế giới với muôn ngàn tình huống, cảnh ngộ, bất kể đến số phận và tính mạng trong cuộc ra đi đó. Biến cố được coi như là sự kiện lịch sử của Việt Nam – và với biến cố Đông Âu, mà khởi sự của nó là Bức Tường Ô Nhục Bá-linh được kéo đổ vào đêm 9-11-1991, và đáng suy nghĩ nhất, là biến cố khối Cộng Sản Liên xô 20-8-1991, biến cố này là một tiến trình tất yếu của của lịch sử thế giới.

Về biến cố 30-4-1975 là một thảm họa đau buồn cho Dân Tộc và Lịch sử Việt Nam. Chúng ta không thể chấp nhận sự thua cuộc của Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta cũng không thừa nhận sự thắng cuộc của đối phương xâm lược Cộng sản Việt Nam. Diễn biến sự kiện này, chính là do các thế lực quốc tế sắp đặt, bị đồng minh phản bội, cấu kết với đối phương và bị áp lực, bị áp lực của các nhóm quyền lực bí nhiệm vô hình Phản Kitô, cài đặt thế cờ cuỡng tử Việt Nam Cộng Hòa. Vào thời điểm đó, nó định đoạt kết thức, xóa sổ Việt Nam Cộng Hòa. Đó là biến cố ngày 30-4-1975.

Nhưng chân lý tất thắng phi lý, chính nghĩa tất thắng ngụy nghĩa. Song song với diễn biến này, nếu chúng ta suy diễn từ góc độ thần linh, thì từ trên thập gía khi Chúa Giêsu tắt thở, thì “Thấy động đất và các sự việc xẩy ra, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói : Qủa thật ông này là Con Thiên Chúa”. (Mt 27,54). Như vậy, cả hai khía cạnh, cả hai tầm nhìn, thì những sự việc đã xẩy ra, đã qua đi, người ta mới nhận ra sụ thật. Tiếc rằng những thế lực đen tối, những phe phái thế lực vô thần, những hội nhóm kình chống thù nghịch Niềm tin, những phe nhóm, những phe phái đề cao văn hóa vô thần, chối bỏ và triệt hạ Sự Thật.

Còn về chủ nghĩa  tư bản, ngày nay rõ ràng là, có những vấn đề toàn cầu cấp bách mà chủ nghĩa tư bản vẫn loay hoay chưa giải quyết nổi, như nạn khủng bố toàn cầu, tình trạng phân hóa giầu nghèo, nạn ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nguy cơ chiến tranh hạt nhân hủy diệt nhân koại, và nhiều những vấn đề phi nhân bản đang được đề cao, như: tự do phá thai, tự do đồng tính luyến ái, tự do sử dụng cần sa ma túy v.v... Nhìn lại cuộc cách mạng tháng 10/1917, ta thấy Liên Xô vùng dậy từ một Phong Trào Cộng Sản đã xuất hiện như các phong trào Xã Hội Đức Quốc Xã, Phát xít v.v... Theo cách họ suy nghĩ và giải thích lịch sử, thì phong trào Cộng Sản hoàn toàn dựa vào cách suy nghĩ chuyển biến lịch sử, bắt nguồn từ duy vật biện chúng, duy vật sử quan.

Do ở những suy nghĩ đó mà người ta khám phá ra rằng - lịch sử là một cuộc đấu tranh liên tục giữa các Tiền đề (Đề) - Phản đề - và Dung đề (hay Hợp đề) – như Tiền đề = Tư bản + Phản đế

= Vô sản – thì thành Dung đề = Cộng sản.

Vậy, ta có thể hiểu là : Tư bản + Vô sản thì ra Dung đề là Cộng sản.

Nhưng trong thực tế thì nó là đấu tranh kinh tế, đấu tranh giai cấp... và tiến trình lịch sử cứ xuất hiện như vậy. Nghĩa là lịch sử cứ thế mà tiến, cứ thế mà đi.

Trong thực tế thì cứ lớp người này thắng thì lên cầm quyền là Tiền Đề (Đề), rồi lại có lớp người khác chống lại là Phản đề. Hai thế lực này kịch liệt đấu tranh nhau và cuối cùng đẻ ra cái thế lực thứ ba là Dung đề, Thế rồi Dung đề, nó lại biến thành Tiền đề, mà hễ có Tiền đề thì có Phản đề, tức là một thế lực khác nổi lên chống lại. Lịch sử cứ thế mà xoay, mà biến chuyển và người ta gọi đó là duy vật sử quan - Đó là về duy vật lịch sử, còn về kinh tế thì người ta bảo là duy vật biện chứng, nghĩa là họ chủ trương chỉ có vật chất tiến hóa theo mẫu thuẫn. Thành ra đối với họ (Cộng Sản), không có thần thánh và cũng không có cái gì khác từ nội tại của thụ tạo. Con người chỉ là đấu tranh để mà sống, để mà sinh tồn.

Từ đó phát sinh ra các chế độ độc tài để tranh giành quyền sống, hoặc thống trị. Các chế độ độc tài như Hitler (Đức), Mussolini (Ý), Pinochet (Chile - Chí Lợi), hay Pon Pot (Cam-puchia), đều có kết cục là phải sụp đổ nhanh chóng. Trên thực tế, đã không có chế độ độc tài nào tồn tại qúa 100 năm. Xét tới cùng, thì chủ thuyết Cộng sản, không có chỗ nào để có thể hé mở cho Mạc khải được, bởi nó hoàn toàn không có đối thoại, mà chỉ có đấu tranh kịch liệt, cũng không có quy luật của tốt xấu hay nguyên lý đạo đức của con người. Bởi thế, chế dộ Cộng sản mà “nhiều người muốn hành xử về bất cứ điều gì để cho tiếng nói của Ngài (Thiên Chúa) không thể được nghe biết, mà chỉ tiếng nói của con người (Cộng sản) mới được chấp nhận, thứ tiếng nói lừa bịp vô dụng, xuất hiện chống lại những sự việc thuộc thế giới này. Và nhiều lần, một sự xuất hiện như thế ở nó gây ra sự phá hoại nền trật tự vũ trụ vạn vật. Điều này không phải là lịch sử bi thảm của chúng ta sao?! (Lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong tác phẩm Bước Qua Ngưỡng cửa Hy Vọng – Chương : Sự sụp đổ của chế độ Cộng sản).

Chính vì Cộng sản chối bỏ Lời của Thiên Chúa, mà Lời của Thiến Chúa là Tin Mừng, mà Tin Mừng là lời mời gọi chân thành nhất, tha thiết nhất, yêu mến nhất, để cho tất cả mọi người được sống một đời sống bình an huynh đệ tại thế và một đời sống trường sinh bất tử ở đời sau. Bốn mươi ba (43) năm qua, nhìn lại biến cố 30-4-1975 ở Việt Nam, thấy nó thoáng hơn, dễ suy tư hơn lúc còn đương cuộc. Vậy, biến cố đó có phải là một sự ngẫu nhiên không? Không thể là một sự ngẫu nhiên được, bởi sau nó, có những con người, những lập trường chủ động, và tới một giai đoạn lịch sử nào đó, nhất thiết nó phải xẩy đến và không thể tránh cách nào khác đuợc. Khi mà con người đang sống vào lúc đó, thì người này đổ lỗi cho người kia, thành phần này chê trách thành phần kia, hoàn toàn không mang một ý nghĩa gì. Nhìn lại biến cố đó, nó đã được đặt trong toàn bộ các lập trường của các khối các phe, và đương nhiên nó phải xẩy ra như thế mà không thể có lối thoát nào khác... Về mặt lịch sử, người ta không nhất thiết nói nó như một định mệnh. Là vì phía sau nó có những động lực của những con người đã đi vào cái dòng máu tạo ra lịch sử, thành ra sự chủ động vẫn là con người áp đặt chứ không phải là định mệnh. Nhìn xa một chút, thí đó là hậu qủa của một dĩ vãng u buồn, ảm đạm, xót xa cho một dân tộc, nghĩa là một biến cố lịch sử không tự nó bộc phát đẻ ra. Từ biến cố 30-4-1975 xuyên qua biến cố Đông Âu 9-11-1989, rồi Liên Xô 19-8-1991 và Thiên An Môn 4-6-1989, người ta có dịp suy nghia lại một cách thận trọng hơn. Do ở những biến cố đó mà chúng ta thấy từ nội tại Đảng Cộng sản đang có sự phân hóa, khiến Đảng phải suy nghĩ, nhà nước suy nghĩ, đảng viêng suy nghĩ, người có đạo suy nghĩa, dân chúng suy nghĩa, ai cũng suy nghĩ về biến cố đó và hậu qủa của nó. Chính vì quan điểm của Đảng của Nhà nước lúc bấy giờ là con đường sai lầm, mà Đảng và Nhà nước đã đi, đi trong sai lầm, lừa bịp, bạo hành, gian dối, bởi họ là “cha của sự gian dối” (Ga 8,44). Chính bởi những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mà phải nhận ra rằng, không thể áp đặt, cưỡng bức con người theo đường lối của Đảng và Nhà nước được, mà phải nhận ra rằng, con người là Tinh thần, là Tự do, là con người Nhân vị, mà Đảng và Nhà nước không thể áp đặt và cướp giật những điều ấy từ con người.

Biến cố đã qua 43 năm, chúng ta mới thấy con người đang tìm về nhu cầu chuyển hướng, nhu cầu biến đổi con người, nhu cầu tìm lại những gía trị Chân, Thiện, Mỹ và tái tạo cho nhiều tư do gặp gỡ nhìn nhận nhau. Bây giờ thì ta thấy biến cố đó như một căn bệnh tự phát nguyên trạng, mà thể lực của nó không còn đủ sức vung gươm múa kiếm, nhưng chỉ còn biết nhận mình là kẻ bệnh hoạn, chịu nhận bất cứ một sự điều trị nào của lương y. Vị lương y đó chính là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là nguyên do sự sụp đổ của Cộng sản. Trong một cảm thức nào đó, Cộng sản như một chế độ tự thoái hóa, bởi hậu qủa là do chính những sự lường gạt và sai lầm của nó... Nó đã không mang lại cho xã hội một sự cải cách chân thật nào, mà con trở thành một quyền đe dọa và thách đố toàn thế giới” (Lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong tác phẩm Bước Qua Ngưỡng cửa Hy Vọng – Chương - Sự sụp đổ của chế độ Cộng sản).

Ngày nay, không ai mà không lên án chế độ Cộng sản :

- 80 năm tại Việt Nam, hơn

- 100 năm tại Liên xô và

- 100 năm tại Trung hoa

Nhìn chung, chủ nghĩa Cộng sản, đã lao đầu vào cuộc chiến tranh gian ác, phi nhân bất nghĩa và hằng có muôn điều rợn rùng khiếp đảm, kinh khủng sợ hãi... Chính vì ý thức được điều đó mà họ đã đang lột bỏ mình, tự biến dạng chế độ như một tuồng diễn hạ cấp đang được kéo màn, hầu ứng nghiệm lời tiên báo: “Sau cùng, Trái Tim Mẹ sẽ thắng”. Lời này đã được loan báo ngay lúc khởi đầu cuộc cách mạng tháng 10-1917 ở Liên xô. Đức Mẹ đã nói cho ba trẻ ở Fatima điều đó...

Cũng do biến cố này mà ta đã nhận ra một số các chiên ghẻ đã đi đêm với chế độ, để lộ lời thề gian dối, lời hứa gỉa hình, tự lột mặt nạ, chạy theo kiểu bè phái Sa-đốc và Pha-ri-siêu để lung lạc Giáo Hội Việt Nam. Trái lại một số lớn các chiên lạc lại trở về đoàn chiên, khi thì lác đác, khi thì miên man liên tục và hằng tiếp diễn.

Qua biến cố này – Ai đó thử làm một chuyến quan sát thực trạng Giáo Hội Việt Nam khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Từ các họ đạo cheo leo heo hút, đến các họ đạo lẻ loi khó nghèo trên khắp cùng đất nước, mới cảm thây sự phù trợ linh thiêng của các Thánh Tử Đạo Việt Nam đang xúc tác mạnh mẽ cho niềm tín các tín hữu v.v...

Nhìn lại toàn bộ biến cố, ta phải xác nhận lại rằng, tất cả mọi sự kiện, mọi biến cố, kể cả nhịp tim của chúng ta, Thiên Chúa cũng hằng quan phòng và điều khiển, bởi vì “Thiên Chúa hằng làm việc, và làm những việc lớn lao khiến ta kinh ngạc” (Ga 5,7.20).

Mặt khác, nhìn vào lịch sử Giáo Hội, ta thấy hầu như Giáo Hội luôn luôn bị bách hại, chống báng, đả kích, triệt hạ v.v... khi thì dã man tàn ác, khi thì chém giết tù đầy, trù ẻo, hêt thủ đoạn này đến mưu đồ khác bởi các thế lực đen tối. Giáo hội và các Tín hữu lại còn phải thường xuyên đương đầu với các giáo phái, ly giáo, lạc thuyết và cách thế lực thù nghịch khác. Thế nhưng, dù đang kinh qua và nối dài cuộc lữ hành thập gía, Giáo Hội vẫn can đảm đồng hành với “Đấng đã thắng thế gian” (Ga 16,33) và “cho đến nay, Đấng ấy đang làm việc với Cha Ngài” (Ga 5,17) mà thành qủa như ta thấy :

“Chúa phá đổ mưu đồ muôn nước

Người đập tan mưu kẻ quản cai

Kế hoạch Ngài muôn năm bền vững

Chương trình Ngài vạn kỷ thiên thu” (Tv 33, 10-17)

“Người đánh tan tành nhiều dân nước

Người diệt bao lãnh chúa hùng cường” (Tv 35,10).

Trước đây, người ta sợ Cộng sản, vì Cộng sản chống đối Thiên Chúa và hủ hóa, nô dịch, tù đầy giết hại con người nhiều kiểu, nhiều cách, nhưng ngày nay người ta không còn sợ Cộng sản nữa, vì Cộng sản đang đi hết đường cùng. Nhưng thay vào đó, ngày nay người ta lại sợ Tư bản vì Tư bản ẩn mình trong chủ nghĩa cá nhân vô thần, vừa muốn thay thế Thiên Chúa, lại vừa muốn tục hóa đời sống con người thành băng hoại. Cái thứ nhất (Cộng sản) đang đi qua, cái thứ hai (Tư bản) đang xẩy đến. Cả hai đều phải được thay thế bằng cái thứ ba. Cái thứ ba chính là cái thế giới Nhân Bản biết đón nhận Tin Mừng, để sống Yêu Thương, Bác Ái, Huynh Đệ và Bình An. Trong đó dời sống mỗi người phải được công chính hóa.

 

Vũ Công Chính

Tháng 4 Năm 2018