Chúa Nhật 2 Mùa Phục Sinh, Năm C

Ga 20: 19-31

Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Kytô và, cùng với các ngài, chúng ta đang sống và sinh hoạt vào thời điểm sau biến cố Phục Sinh đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần vốn được xem là ngày đoàn tụ của các Kytô hữu tiên khởi.

Đồng thời đó cũng là ngày đặc biệt, ngày mà Đấng Phục sinh chọn để hiện diện giữa một cộng đoàn còn non trẻ để chia sẻ với họ niềm vui Phục Sinh, đồng hành với họ trong việc cử hành Lời Chúa và nghi lễ Bẻ bánh và sau cùng là sai họ ra đi rao giảng Tin mừng cho nhân loại.

TỪ BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH….

Từ sau biến cố xảy đến cho Thầy, các môn đệ chưa hết bàng hoàng đớn đau, các ông lại phải đối diện với sự bách hại khác từ phía những người Dothái. Các ông sợ người Dothái hay đúng hơn sợ các ông thủ lãnh Dothái. Các môn đệ sợ là phải. Lý do là vì ngay đến Thầy mà họ còn không buông tha, còn đối xử tàn ác đến như vậy huống gì trò. Chính vì thế, cách tốt nhất để bảo vệ mình là “bế quan toả cảng, nội bất xuất, ngoại bất nhập” để tránh sự săn lùng và dòm ngó của người Dothái. Đang sống trong tâm trạng bất an và não nề như thế, Đấng Phục Sinh xuất hiện và điều Ngài mang đến cho các ông thời điểm này chính là hoa trái của sự Bình an (Shalom). Bình an cho anh em. Đây không chỉ là lời chào hỏi xã giao thông thường mà đó còn là một sự xác quyết mạnh mẽ về sự hiện diện đích thực của Đấng Phục Sinh. Bình an đích thực chỉ đến từ Đấng Phục sinh và chính Ngài và từ nơi Ngài mới có thể đem bình an đến cho những ai đang sống trong tâm trạng bất an nặng nề.

Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh không chỉ thuần tuý mang ánh sáng và bình an để phá tan bóng tối mây mù đang rình rập các môn đệ, xua tan nỗi thống khổ ưu phiền của các ông mà còn là việc trao ban Thần Khí và sai các ông tiếp tục sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Như thế, chúng ta thấy rõ rằng, sứ mạng đi vào thế giới của các môn đệ xuất phát từ sau biến cố Phục Sinh. Đặc biệt hơn, đối với thánh sử Gioan thì đây lại là một sứ mạng nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu vốn phát xuất từ Chúa Cha. Để được như thế, chính Đấng Phục Sinh trao ban hay đúng hơn là thổi Thần Khí vào các môn đệ như gợi nhớ ngày Giavê Thiên Chúa thổi sinh khí để làm nên con người trong buổi đầu công trình tạo dựng (x. St 2,7) hay làm cho con người hồi sinh (x. Ed 37,5.9). Các môn đệ nhận lãnh Thần Khí của Đấng Phục Sinh, tiếp tục sứ mạng của Thầy nhằm rao giảng cho muôn dân Tin mừng Phục sinh, xoá bỏ tội lỗi và ban ơn tha thứ.

ĐẾN LỜI TUYÊN XƯNG (Đức Tin) CỦA TÔMA

Thật thú vị là lần hiện ra của Chúa Phục Sinh cách đây tám ngày không có sự hiện diện của Tôma Điđymô. Tôma đi đâu? Tin mừng không đề cập, nhưng cứ theo sự thường, chúng ta có thể thấy Tôma có lẽ cũng đang ở trong tâm trạng hoảng loạn, mất phương hướng, thậm chí chán nản sau cái chết của Thầy. Tệ hơn, có thể Tôma không đủ can đảm để gánh vác trách nhiệm, để chia sẻ với anh em đồng môn trong tình cảnh “xẻ đàn tan nghé”, mà hơn lúc nào hết rất cần đến sự “chung lưng đấu cật” để vượt qua khó khăn. Việc Tôma không ở cùng các môn đệ phải chăng là sự thoái thác một phần hay hoàn toàn trách nhiệm? Và phải chăng đó còn là sự thể hiện tính nhút nhác, sợ liên lụy với các đồng môn của mình mà ông biết rằng các thủ lãnh Dothái sẽ không tha như đã xử với Thầy? Tôma ra đi, xa rời nơi nguy hiểm, xa rời nơi ẩn náu của anh em để tìm cho mình một sự bình an, một sự an toàn chắc chắn cho riêng mình. Ông có biết đâu đó cũng chính là lần mà ông đã mất đi diễm phúc được nhìn thấy Chúa Phục Sinh, mất đi lời chúc Bình an của Người, mất tất cả.

Khi được các môn đệ thuật lại việc các ông thấy Chúa, Tôma lại cho rằng đó là việc không tưởng, rỗi hơi, khéo tưởng tượng, óc mụ mẫm của đàn bà con gái, chứ làm gì có chuyện đó. Tôma dõng dạc tuyên bố trước mặt anh em: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Trước lời tuyên bố hùng hồn của Tôma, các môn đệ khác đành tiu nghỉu im lặng. Mà không tiu nghỉu im lặng sao được khi lý luận mà Tôma đưa ra không chê vào đâu được. Đối với các ông, việc thấy Chúa sống lại là một niềm vui qúa sức mong đợi, như quên đi tất cả, còn tâm trí đâu để ý đến chân với tay, lỗ đinh với cạnh sườn để giờ đây đành phải “bí” trước đòi hỏi của Tôma. Tôma quả đúng là ông tổ của khoa học thực nghiệm: không bao giờ đi đến kết luận nếu trước đó chưa có kiểm nghiệm cách chắc chắn.

Một lần nữa Chúa Phục sinh hiện đến với các môn đệ và chính Người mới có thể hoá giải thế bí cho các môn đệ đồng thời để giải đáp những yêu sách của “ông tổ khoa học thực nghiệm” là Tôma đưa ra. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Được đứng trước Thầy và được nghe những lời chúc bình an thốt ra từ môi miệng Thầy, Tôma làm gì còn tâm trí mà thử với chả nghiệm. Phản ứng tức thời của ông là lời tuyên xưng vốn được xem là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng để chuộc lấy lỗi lầm vì đã không tin việc Người sống lại. “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng được vang lên trong các kinh Tin kính của các cộng đoàn Kytô tiên khởi, được nối tiếp qua các thời đại và sẽ còn vang vọng đến muôn đời.

“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Từ sau lần ấy, đức tin của Tôma cũng như của các thế hệ mai sau sẽ không còn dựa trên những thực nghiệm, những kinh nghiệm cụ thể về Đấng Phục Sinh hiện ra nữa mà chính là dựa trên lời chứng do các Tông đồ rao giảng – những người đã chứng nghiệm rõ ràng, được thấy, được tận hưởng niềm vui ngọt ngào của Đấng Phục sinh.

Là những người thừa kế di sản của Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Đấng Phục sinh từ các tông đồ rao giảng, chúng ta thật diễm phúc. Nếu chỉ dừng lại ở việc mắt thấy, việc chiêm ngưỡng hình ảnh Đấng Phục sinh, các Tông đồ là người hạnh phúc hơn chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức tin là một ân ban nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên việc chúng ta xác tín niềm tin vào Đấng Phục sinh cũng xứng đ¨¢ng xếp chúng ta vào hàng ngũ các tông đồ của Chúa. Chính vì thế, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân lớn lao này, đồng thời cũng xin Chúa trợ giúp chúng ta để mỗi một ngày trôi qua, chúng ta không ngừng tiếp bước sứ vụ mà các Tông đồ đã truyền lại để ra đi rao giảng tin vui Phục sinh cho muôn người.

Lm. Phạm Ngọc Ngôn