Rõ ràng nước Mỹ không cấm được súng. Vì sao vậy? Để trả lời câu hỏi này, cần xem xét các yếu tố lịch sử và văn hóa của nước Mỹ. Nhiều tiểu bang tiếp tục nới lỏng luật, một số tiểu bang thì luật không có tác dụng.
Súng được bày bán tại một cửa hàng ở Burns, Oregon
Tờ Texas Tribune phản ánh, tại Texas(Đảng DC) dù
chứng kiến nhiều vụ xả súng hàng loạt trong tiểu bang,
nhưng vẫn cố gắng nới lỏng luật sử dụng súng hơn bao giờ hết.
Năm ngoái,tiểu bang này đã bỏ giấy phép sử dụng súng,
cho phép hầu hết mọi người công khai mang súng mà
không cần giấy phép hay hướng dẫn sử dụng.
Toà án bãi bỏ luật
Hầu hết các hạn chế đối với súng được thực thi ở cấp
tiểu bang, và có sự không đồng nhất trên khắp nước
Mỹ. Ngay cả ở những tiểu bang có đa số ủng hộ biện
pháp kiểm soát súng, các tòa án liên bang cũng tồn
tại những sự đối lập.
Tòa án tối cao dường như đã sẵn sàng cho việc sử
dụng súng nhiều hơn trên đường phố Mỹ, và loại bỏ
luật quản lý súng gắt gao của bang New York. Dự
kiến sẽ có quyết định trong tháng tới hoặc hơn.
Nước Mỹ rõ ràng đang bị chia rẽ về vấn đề súng và
cách hạn chế chúng. Nhiều người Mỹ tin rằng Hiến
pháp xem quyền sở hữu súng giống như cách nhìn
về quan điểm cuộc sống, quyền tự do và theo đuổi
hạnh phúc.
Sự bảo thủ ngày càng tăng từ phía tòa án tối cao
đã biến niềm tin đó thành tiền lệ.
Trong thăm dò gần đây của Gallup, chỉ một phần
nhỏ người Mỹ ủng hộ luật kiểm tra dùng súng chặt
chẽ hơn. Một cuộc khảo sát năm ngoái 2021 từ
ABC News và Washington Post cho thấy khoảng
một nửa người dân cho rằng luật kiểm tra dùng
súng chặt chẽ hay việc thi hành khắt khe hơn cũng
sẽ không làm giảm số lượng tội phạm bạo lực
ở quốc gia này.
Trong một phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Pew về
cuộc thăm dò cho những ý tưởng cụ thể vào năm ngoái,
có một sự ủng hộ rộng rãi: 87% ủng hộ việc ngăn những
người với tiền sử tâm thần mua súng, 81% ủng hộ việc
bán súng tư nhân cũng như ở các buổi trưng bày và
có kiểm tra lý lịch.
Năm 2012 cả nước Mỹ kinh hoàng khi biết tin vụ thảm sát
làm 12 người chết và 59 người bị thương xảy ra tại rạp
chiếu phim Century ở thị trấn Aurora Tiểu bang Colorado
lúc nửa đêm hôm 20/7 .
Hung thủ John Holmes mang theo một súng trường AR15
và 3 súng ngắn bỗng dưng đi vào rạp rồi xả súng vào đám
đông khán giả đang xem bộ phim Người Dơi.
Holmes mới 24 tuổi, đã tốt nghiệp đại học ;
hắn giết người không vì thù hận ai mà chỉ vì hoang tưởng
mình là anh hề Joker, một nhân vật trong bộ phim này
từng xả súng vào khán giả xem phim.
Những vụ bắn giết bừa bãi vô cớ như vậy thường xuyên
xảy ra ở nước Mỹ.
Năm 2007 tại trường đại học công nghệ Virginia, một sinh
viên dùng súng bắn chết 32 người rồi tự tử.
Tai họa súng ở Mỹ từng gây rắc rối quan hệ quốc tế.
Tại Baton Rouge thuộc Tiểu bang Louisiana
ngày 17/10/1992 xảy ra vụ thảm sát Yoshihiro Hattori
một thiếu niên Nhật 16 tuổi sang Mỹ theo chương trình
trao đổi học sinh. Đêm ấy Hattori cùng cậu bạn người
Mỹ hóa trang làm quỷ sứ đi dự dạ hội ;
họ gọi nhầm cửa một gia đình không quen biết, bà chủ
nhà khi mở cửa sợ quá hét lên, ông chồng chạy ra
nổ súng giết chết Hattori.
Cả nước Nhật kinh hoàng không hiểu ra sao. Sau đó chương
trình trao đổi học sinh giữa hai nước bị trục trặc một thời gian..
Dư luận quốc tế ngày càng mạnh mẽ ủng hộ việc cấm súng
ở Mỹ. Sau cái chết của Hattori, 1 triệu người Mỹ và 1,65 triệu
người Nhật cùng ký vào đơn thỉnh nguyện gửi tới Tổng thống Clinton.
Sáu trong số 44 Tổng thống Mỹ là nạn nhân của các vụ ám
sát bằng súng. Nhưng kinh khủng nhất là những vụ xả súng
bừa bãi vô cớ giết người hàng loạt như mấy vụ kể trên.
Nước Mỹ đứng đầu thế giới về tai họa do súng gây ra:
trung bình hàng năm có khoảng 100.000 người thương
vong bởi súng, trong đó chết chừng 30.000 (thí dụ năm 1997
có 32.436 người chết). Tổng số người Mỹ chết vì tai nạn
súng trong nước nhiều hơn tổng số lính Mỹ chết trong
tất cả các cuộc chiến tranh ở ngoài nước.
Tự tử bằng súng là một vấn nạn lớn.
Năm 2012 Chính quyền Obama thừa nhận cứ 36 giờ thì
có 12 người Mỹ trẻ chết vì tội phạm bạo lực.
Những tai họa thảm thương nói trên không thể không liên
quan tới việc từ xưa tới nay tất cả các đời chính phủ Mỹ
đều để cho dân chúng được quyền sở hữu và mang
súng theo người.
Trên thế giới không nước nào dân chúng sở hữu súng với
mức độ cao như nước Mỹ. 314 triệu dân Mỹ hiện nay
làm chủ hơn 270 triệu súng các loại; bình quân mỗi
người lớn có hơn 1 khẩu súng.
Dư luận quốc tế ngày càng mạnh mẽ ủng hộ việc cấm súng
ở Mỹ. Sau cái chết của Hattori, 1 triệu người Mỹ và 1,65 triệu
người Nhật cùng ký vào đơn thỉnh nguyện gửi tới Tổng
thống Clinton.đòi cấm súng .
Nhưng phần lớn người Mỹ lại nghĩ khác. Họ lên án các vụ
bắn giết nhưng sau đó tình hình kiểm soát súng vẫn thế,
chẳng có gì thay đổi, mặc dù lâu nay họ bàn cãi nhiều về
vấn đề này.
Có điều họ chủ yếu bàn cãi chuyện quản lý súng đạn như
thế nào chứ không đụng tới chuyện cấm súng.
chả lẽ người Mỹ chưa « ớn » nạn tự do sở hữu súng,
chả lẽ họ không muốn bảo vệ tính mạng mình và con
cháu mình ư?
Khi tuyên bố về vụ thảm sát hôm 20/7,Tổng thống Obama
cũng không nói gì tới việc phải sửa đổi luật kiểm soát súng
cho chặt chẽ hơn.
« Quan điểm của Tổng thống là chúng ta có thể tiến hành
các biện pháp nhất định để cách ly súng đạn khỏi tay
những kẻ không nên có súng dưới các điều luật hiện hành » —
người Phát ngôn Toà bach ốc Jay Carney chỉ nói thế khi
Obama tới Colorado để tưởng niệm các nạn nhân.
Nhưng Obama không nói rõ đó là những biện pháp nào.
ông nói ông tôn trọng quyền người dân mang theo vũ khí.
Tờ Washington Post viết : « Chúng tôi không kỳ vọng vụ
thảm sát sẽ dẫn tới sự xiết chặt luật lệ. Chúng tôi hiểu bầu
không khí chính trị hiện nay », và kết luận :
« Luật súng của Mỹ hiện thật khó chấp nhận ». Trong vụ
xả súng tại Tiểu bang Arizona , nghị sĩ Gabby Giffords của
bang này bị thương nặng nhưng chính quyền Arizona đâu
có vì thế mà tăng cường kiểm soát súng.
Rõ ràng nước Mỹ không cấm được súng. Vì sao vậy ?
Để trả lời câu hỏi này, cần xem xét các yếu tố lịch sử và
văn hóa của nước Mỹ.
Lịch sử nước Mỹ gắn liền với súng đạn. Những tốp người
châu Âu đầu tiên vượt biển tới đây khai phá đất hoang đều
phải dùng súng để tự vệ, chống thú dữ, đánh đuổi người
bản xứ để chiếm đất, xây dựng nên các vùng đất thuộc địa
dưới sự thống trị của thực dân Anh.
Luật pháp một số nơi yêu cầu người khẩn hoang phải có
vũ khí để cùng mọi người chiến đấu với kẻ địch. Toàn bộ
đàn ông các thuộc địa này đều tự vũ trang thành các đội
dân quân. Khi nhà cầm quyền thực dân đòi dân quân Mỹ
nộp súng, thì họ không nộp, hơn nữa dân Mỹ ở 13 thuộc
địa tuyên bố thành lập một quốc gia độc lập với Anh Quốc.
Tiếp đó họ tiến hành cuộc chiến tranh Độc lập 1775-1781
chống lại thực dân Anh và giành thắng lợi.
Trong các cuộc Nội chiến tàn khốc 1862-1865 giữa hai miền
Nam Bắc, rồi cuộc Tây tiến tranh cướp đất và vàng, mọi mâu
thuẫn đều giải quyết bằng súng đạn. Tiếp đó nước Mỹ mạnh
dần lên và dùng vũ lực chiếm đất xung quanh,mở rộng lãnh thổ.
Như cuộc chiến tranh 1846-1848 buộc Mexico phải nhượng
cho Mỹ các vùng đất Texas, California v.v…hoặc cuộc chiến
tranh năm 1898 buộc Tây Ban Nha phải nhượng cho Mỹ
các lãnh thổ Philippines, Puerto Rico và Guam. 100 năm sau
ngày độc lập (1776), diện tích nước Mỹ mở rộng gần 10 lần,
đều là kết quả của « ngoại giao súng ống ».
Nước này cũng sản xuất nhiều súng đạn nhất thế giới.
Trong cuốn Nước Mỹ vũ trang : Câu chuyện đáng nhớ về
việc Vì sao và như thế nào súng trở thành cái bánh Táo
của người Mỹ (Armed America: The Remarkable Story of
How and Why Guns Became as American as Apple Pie.
Bánh táo là loại bánh ngọt người Mỹ rất thích),
Clayton Cramer viết : « Súng là cốt lõi của phần lớn lịch
sử nước Mỹ, cũng là tiêu điểm của phần lớn các câu
chuyện huyền thoại và khủng bố. »
Hiến pháp Mỹ thông qua năm 1789 chỉ có 7 điều nhưng
lại có tới 27 điều Bổ sung (Amendment, còn dịch là Tu
chính án) ; trong đó 10 điều Bổ sung đầu tiên gọi là Luật về Quyền lợi
(Bill of Rights). Điều Bổ sung số II có tiêu đề Quyền giữ và
mang vũ khí, được thông qua ngày 15/12/1791 bảo đảm
các công dân Mỹ có quyền sở hữu và mang súng. Về sau
chính quyền hơn một nửa số bang ở Mỹ tán thành Học thuyết
Castle, tức học thuyết chủ trương cho phép cá nhân được
tự vệ chính đáng kể cả sát thương thay vì rút lui khi bị tấn
công, và thể hiện nó bằng luật Stand your Ground
(Đứng nguyên tại chỗ, nếu không tôi sẽ bắn), tức luật cho
phép nổ súng khi bị đe dọa.
Trên vấn đề ủng hộ hay phản đối kiểm soát súng, người Mỹ
đang có sự chia rẽ rõ ràng Trong thực tế số người muốn
cấm súng là thiểu số, mà ở nước Mỹ hầu như cái gì cũng
quyết định theo đa số.
Những người phản đối cấm súng nói : thông thường cảnh
sát chỉ đến hiện trường sau khi đã xảy ra hành động phạm
tội, vì thế mang theo súng là cách tự vệ tốt nhất của người
dân khi đối mặt với hung thủ. Nếu tước quyền mang súng
của những công dân tôn trọng pháp luật thì sẽ không thể
ngăn chặn được tội ác.
Một số bang thi hành lệnh cấm súng đã làm cho mức độ
phạm tội tăng lên.
Tuy vậy vẫn có không ít người Mỹ đòi hỏi phải kiểm soát
súng thật chặt chẽ, sao cho súng không lọt vào tay những
kẻ xấu, người tâm thần. Đảng Dân chủ ủng hộ quan điểm
tiến bộ này.
Nhưng phe bảo thủ gồm NRA và đảng Cộng hòa phản đối
việc cấm súng. Hai bên tranh cãi mãi về hàm nghĩa không
rõ ràng của Điều Bổ sung số II.
Điều Bổ sung này có hai vế : vế đầu nói Dân quân được quản
lý tốt là cần thiết cho sự an toàn của bang tự do ; vế sau nói
không được xâm phạm quyền mọi người giữ và mang vũ khí
(A well regulated Militia being necessary to the security of a
free State, the right of the people to keep and bear Arms shall
not be infringed).
Có hai cách giải thích khác nhau về nội dung đó.
Phái tiến bộ giải thích hai vế này có quan hệ nhân quả : vế đầu
là tiền đề của vế sau, chỉ ai tham gia dân quân mới được có
vũ khí, tức quyền sở hữu súng là sở hữu tập thể, Hiến pháp
không quy định người nào cũng được có súng. Nói cách khác
là nên cấm súng.
Phái bảo thủ giải thích hai vế đó không có quan hệ nhân quả mà là quan hệ ngang hàng ; vế sau mới là quan trọng nhất ; Hiến pháp không hề nói không được vi phạm quyền người tham gia dân quân giữ và mang vũ khí. Phái này lập luận : Cấm súng không giải quyết được vấn đề ; Na Uy cấm súng thế nhưng vẫn xảy ra vụ hôm 22/7/2011 kẻ cực hữu Anders Behring Breivik nổ bom và xả súng giết chết 77 người đấy thôi.
Sau nhiều năm né tránh cuộc tranh cãi này, tháng 11/2007, Tòa Tối cao Mỹ đồng ý thụ lý vụ chính quyền đặc khu Washington DC bị kiện vì đã ra lệnh cấm súng lục. Đây là lần đầu tiên trong 70 năm Tòa Tối cao thụ lý vụ việc liên quan súng, cũng là lần đầu tiên Tòa ra phán quyết rõ ràng về quyền có súng của người dân.
Tòa có 9 thẩm phán thì 5 vị nói sở hữu súng là quyền của cá nhân ; giữ súng là để tự vệ, để săn bắn, để hoạt động thể thao ; dĩ nhiên cũng có liên quan tới việc tham gia dân quân.
4 vị có tư tưởng tự do thì nói không nên xét theo câu chữ mà nên xem xét ý định của các nhà lập pháp nêu ra cách đây hơn 200 năm : hồi ấy Quốc hội đưa Điều Bổ sung số II vào Hiến pháp là do Quốc hội e ngại chính phủ Liên bang có thể vi phạm quyền lực của các bang ; để tự bảo vệ thì mỗi bang phải tự xây dựng lực lượng dân quân (tên chính thức là Đội cảnh vệ quốc dân) ; vì thế quyền sở hữu súng nói ở đây là quyền tập thể chứ không phải quyền cá nhân.
Ngày 26/7/2008, Tòa Tối cao ra phán quyết trên cơ sở biểu quyết của 9 thẩm phán. Kết quả phái bảo thủ thắng phái tự do với tỷ số 5 : 4 — nghĩa là Tòa không cấm quyền cá nhân sở hữu súng. Tòa Tối cao đã phán như thế thì chẳng ai dám nói cấm súng nữa, kể cả Tổng thống.
Nhìn chung các Tổng thống Dân chủ đều cố gắng tìm cách đưa ra luật lệ để tránh súng lọt vào tay kẻ tội phạm hoặc tâm thần.
Ngày 13/9/1994, Tổng thống Clinton ký lệnh cấm súng tấn công (là loại có thể sát thương nhiều người cùng một lúc), nhằm mục đích giảm thương vong do các tai nạn súng, quy định việc buôn bán 19 loại súng tấn công quân dụng và hộp đạn trên 10 viên là bất hợp pháp. Nhưng lệnh có kèm một điều là chỉ có thời hạn 10 năm, sau đó nếu Quốc hội không ủy quyền kéo dài thời hạn thì lệnh cấm này tự động hết hiệu lực. Năm 2004 (thời Tổng thống Bush con), dưới sức ép của NRA, Quốc hội Mỹ không tuyên bố kéo dài thời hạn thi hành lệnh trên, như vậy nghĩa là lệnh cấm đó thất bại. Hậu quả là những loại súng như AK-47, súng lục TEC-9 là những vũ khí tấn công vốn chỉ cảnh sát mới được dùng, nay cũng được bán cho dân.
- Luật pháp Mỹ quản lý súng lỏng lẻo « không bằng quản lý đồ chơi của trẻ em ». Nhiều người Mỹ tự hào với quyền tự do sở hữu súng được Hiến pháp bảo đảm. Họ thấy việc công dân có súng là chuyện rất bình thường. Hầu như không ai để ý tới một sự thật là trong số họ có những kẻ điên rồ ngu xuẩn hoặc tâm thần có thể dùng súng để giết mình hoặc đồng loại. Chính quyền một nửa số bang cho phép dân được mang súng tại các nơi công cộng, cho phép được bắn người khi tính mạng mình bị đe dọa.
Người nước ngoài đến Mỹ đều vô cùng ngạc nhiên khi thấy súng đạn được bày bán khắp nơi như một mặt hàng bình thường. Người mua chỉ cần có đủ các điều kiện về tuổi quy định, không có tiền sử phạm tội hoặc bệnh tâm thần và được cảnh sát cho phép thì có thể được mua súng và cấp Giấy phép sở hữu súng. Người mua chỉ cần tự khai vào một biểu mẫu. Người bán gửi bản khai đó cho cảnh sát ; sau khi đối chiếu với hệ thống hồ sơ lưu trữ toàn quốc về nhân thân của công dân Mỹ, cảnh sát sẽ trả lời có cho phép mua súng hay không (mọi liên lạc đều qua mạng) ; nếu thấy có vấn đề, cảnh sát lập tức đưa người đó về đồn thẩm tra. Nơi bán súng thường có bãi thử súng. Ai chưa biết cách dùng súng thì không được mua súng. Người mua súng phải qua sát hạch tương tự khi lấy bằng lái xe : sát hạch lý thuyết rồi sát hạch thực tế khả năng dùng súng. Có giấy phép rồi hàng năm phải trình xét.
Quản lý súng không nghiêm như vậy là kết quả các cuộc vận động lobby của Hội Súng toàn quốc Mỹ (National Rifle Association of America, NRA) vốn là một tổ chức ôn hòa do những thợ săn và người thích súng lập ra năm 1871, theo kiểu một tổ chức tương tự của người Anh.
Có tới 8 Tổng thống Mỹ từng là thành viên RFA : Grant, Theodore Roosevelt, Eisenhower, Kennedy, Nixon,Reagan, George H. W. Bush. Ông Bush con (George W. Bush) được coi là Tổng thống thân thiện nhất với súng.
Thời xưa, khi việc dân có súng chưa gây ra lắm rắc rối thì NRA chủ yếu mở các khóa huấn luyện cách sử dụng súng an toàn, kỹ thuật bắn súng và săn bắn. Từ thập niên 60 thế kỷ XX trở đi, khi nhiều người Mỹ đòi kiểm soát súng thì NRA đã từ vai trò câu lạc bộ những người yêu súng trở thành đoàn thể chính trị phản đối việc cấm súng.
Ngày nay NRA có 4,3 triệu hội viên và là đoàn thể có thế lực nhất nước. Họ đã chi 10 triệu USD cho cuộc tranh cử Tổng thống năm 2008. Tờ Washington Post cho biết trong lần bầu cử Quốc hội gần đây, 4/5 ứng viên do NRA ủng hộ đều trúng cử. Vì thế các chính khách rất ngại chống lại NRA. Năm ngoái, khi từ chối thảo luận với Tổng thống Obama về vấn đề kiểm soát súng, Phó Chủ tịch NRA là Wayne LaPierre nói: “Vì cớ gì mà tôi hoặc NRA lại có thể ngồi cùng với nhóm người bỏ cả đời họ để tìm cách hủy diệt Điều Bổ sung số II của Hiến pháp Mỹ nhỉ? »
Sau vụ xả súng ở Colorado, Steve Schmidt một chiến lược gia của đảng Cộng hòa nói tại chương trình Meet the Press của công ty NBC rằng « Mọi người sẽ không phản đối NRA đâu. Đó là nhóm lợi ích có quyền thế nhất ở Washington. » Cũng tại chương trình ấy, bà Carolyn McCarthy nghị sĩ đảng Dân chủ nói : « Rất nhiều chính khách hiểu rằng đấu tranh cứu tính mạng người dân là đúng. Nhưng bây giờ họ đã không còn thẳng lưng nữa. Ai cho họ tiền thì họ theo người ấy. » ; chống lại NRA sẽ cứu được tính mạng của người Mỹ. Nghị sĩ Cộng hòa Louie Gohmert lập luận : Nếu khán giả trong rạp chiếu bóng Century đêm 20/7 ấy có mang súng và bắn lại hung thủ thì có lẽ số thương vong sẽ bớt đi. Nhưng một cựu Cảnh sát trưởng lại phát biểu James Holmes toàn thân trang bị chống đạn, rất khó có thể bắn hạ được hắn.
Có điều kỳ quặc là sau thảm họa ấy, số người mua súng ở bang Colorado lập tức tăng vọt; những người mua nói bây giờ họ thấy cần có súng để tự vệ.
- Sẽ là thiếu sót nếu nói nước Mỹ không thể cấm súng chỉ là do Hiến pháp Mỹ có Điều Bổ sung số II và do Hội Súng toàn quốc Mỹ NRA tích cực hoạt động chống cấm súng.
Thực ra ở đây còn có tác động của văn hóa bạo lực — một đặc điểm của nước Mỹ. Người Mỹ ưa phiêu lưu mạo hiểm, ưa thích những mẫu người dũng cảm, tài trí vượt trội, trong đó có tài bắn giết. Các siêu nhân như vậy trở thành mẫu người lý tưởng của giới trẻ. Bộ máy văn hóa khổng lồ của nước Mỹ, từ giới nhà văn cho tới giới điện ảnh, truyền thông hầu như tất cả đều cổ súy cho « típ » người như thế. Trước những vụ thảm sát hàng loạt xảy ra tại Mỹ, dư luận không thể không đặt câu hỏi liệu đây có phải là cái giá phải trả cho vô vàn tiểu thuyết, bộ phim và trò chơi máy tính đầy rẫy cảnh bạo lực hay không. Đúng là người Mỹ thích các tác phẩm văn hóa như vậy nhưng không thể nói là họ thích hành động bạo lực. Thực ra hầu hết họ yêu người yêu vật, yêu cộng đồng, yêu nước, yêu công bằng chính nghĩa. Các phim và trò chơi đều có kết thúc rất nhân văn ; những cảnh bạo lực hầu như chỉ để thu hút khán giả, để làm cho họ khoái trá trước tài tưởng tượng và dàn dựng của tác giả.
Nhưng không thể phủ nhận một sự thực là không ít thanh thiếu niên có tâm lý không vững vàng đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa bạo lực ấy. Đa phần hung thủ trong các vụ thảm sát đều là thanh thiếu niên mê xem phim hoặc chơi game bạo lực. John Holmes nói với cảnh sát rằng hắn là Joker, kẻ thù của Người Dơi Batman ; Joker từng xông vào rạp hát, ném lựu đạn hơi cay, giết sạch người xem phim ; bây giờ Holmes cũng làm hệt như vậy. Nhân thân của Holmes không có gì đáng ngờ : tốt nghiệp đại học khoa Thần kinh học, không có tiền sử phạm tội và không có liên hệ với các nhóm khủng bố. Nhưng hắn mê chơi game bạo lực và có lẽ do chịu ảnh hưởng của phim Người Dơi đầy cảnh bạo lực, hắn đã mắc bệnh hoang tưởng, muốn trở thành nhân vật Joker.
Một nguyên nhân nữa làm giảm số người ủng hộ kiểm soát súng là do văn hóa chính trị ở Mỹ luôn có xu thế : quan điểm bảo vệ các quyền lợi cá nhân bao giờ cũng lấn át tiếng nói đòi nêu cao trách nhiệm xã hội. Xu thế này tồn tại đã lâu trong đời sống người Mỹ, nhưng từ các biến đổi xã hội hồi thập niện 60 trở đi lại càng mạnh lên, nó xóa nhòa sự bất đồng giữa hai phái tả và hữu. Trào lưu xã hội cổ súy công chúng ủng hộ hôn nhân đồng giới và hợp pháp hóa sử dụng ma túy cũng khuyến khích họ hiểu Điều Bổ sung số II của Hiến pháp Mỹ theo một nghĩa rộng hơn — ủng hộ tự do cá nhân. Dân Mỹ ưa tự do dân chủ vốn có xu hướng không tin vào kẻ cai trị, tức chính quyền ; họ luôn cho rằng từng cá nhân phải tự quyết định số phận mình là chính, chớ nên trông mong vào chính quyền, kể cả việc bảo vệ mạng sống của mình và gia đình.
Điểm chung của tất cả các vấn đề nói trên là chủ nghĩa cá nhân ở nước Mỹ vốn đã rất mạnh, nay lại ngày càng mạnh lên. Trong mọi cuộc tranh luận, quan điểm đề cao quyền lợi cá nhân đều lấn át các quan điểm đạo đức và chính trị. Những người chủ trương bảo lưu quyền sở hữu súng cổ súy cho quyền lợi của « các công dân tôn trọng pháp luật ». Điều đó chẳng khác gì đề xướng quyền tự do của « những người lớn tự giác tự nguyện » trong phong trào ủng hộ quyền của những người luyến ái đồng giới. Tổng thống Obama cũng ủng hộ quyền ấy.
Tóm lại, văn hóa bạo lực, văn hóa súng và văn hóa chủ nghĩa cá nhân đã trở thành các bộ phận trong nền văn hóa đa nguyên ở nước này. Như mọi người đều biết, cái gì đã trở thành văn hóa thì rất bền vững, khó thay đổi.
Từ các trình bày ở trên có thể thấy còn lâu nước Mỹ mới cấm được súng hoặc kiểm soát súng một cách nghiêm ngặt hơn. Đây là bi kịch của nền chính trị và văn hóa Mỹ./.
ZACHARY B. WOLF
(Bookmark the permalink)